Trung tướng Nguyễn Kim Khoa – Một đời lính, trọn niềm tin
QK2 – “Còn sống là còn kể lại cho thế hệ sau, để hiểu rằng, có một thời, người ta sống và chiến đấu để gìn giữ danh dự dân tộc, và sự thật lịch sử”. Câu nói giản dị nhưng thấm đẫm tinh thần trách nhiệm ấy của Trung tướng Nguyễn Kim Khoa sau 50 năm nhớ lại những ngày Tháng 4 sục sôi khí thế tiến vào giải phóng Sài Gòn – Gia Định.

Trung tướng Nguyễn Kim Khoa trò chuyện với tác giả.
Sinh năm 1955 tại Vĩnh Phú (nay là Phú Thọ), Nguyễn Kim Khoa lớn lên trong bối cảnh đất nước chia cắt, chiến tranh ác liệt. Năm 1973, khi học xong lớp 10 và vừa thi đỗ Đại học Bách khoa Hà Nội – niềm mơ ước của biết bao thế hệ trẻ, ông đã tình nguyện gác lại giấc mơ giảng đường, lên đường nhập ngũ tháng 4 năm 1974. “Tôi nhớ mãi cảm giác ngày ấy. Bố mẹ nghèo, chỉ được nghỉ đúng một ngày trước khi đi, tôi dành thời gian đi lấy củi, mua sắn, lo cơm nước cho mẹ và các cháu. Không có liên hoan để tiễn biệt gì cả. Chỉ có cán bộ xã và đoàn viên thanh niên đi bộ đưa đến nơi tập trung và chia tay, với lời thề: “Thanh niên Vĩnh Phú xin thề: chưa hết giặc Mỹ chưa về quê hương”.
Vào chiến trường Tây Nguyên, ông thuộc Trung đoàn 24, Sư đoàn 10 – một trong những đơn vị chủ lực của Mặt trận Tây Nguyên. Ban đầu là tiểu đội trưởng bộ binh, sau đó được điều sang khẩu đội súng cối 82mm. “Không được học bài bản, nhưng vào chiến trường là phải chiến đấu luôn. Chúng tôi tự học cách bắn cối, cách phối hợp đội hình ngay trong hầm hào, dưới làn đạn. Địa danh như điểm cao 601A (Bắc thị xã Kon Tum), Buôn Ma Thuột, Phước An, đèo Phượng Hoàng… giờ là tên gọi lịch sử, nhưng với chúng tôi khi ấy là lửa đạn, là máu và sự sống còn”.
Trong Chiến dịch Tây Nguyên, đơn vị ông tham gia nhiều trận đánh lớn: từ Buôn Ma Thuột, Phước An, Chư Nga đến giải phóng Nha Trang, Cam Ranh. Trận đèo Phượng Hoàng là một trong những ký ức không thể nào quên. Với khẩu đội chỉ 7 người, họ luồn sâu đánh hai trận địa pháo địch phía Đông đèo Phượng Hoàng, tạo điều kiện cho đơn vị phá tan tuyến phòng thủ then chốt, rồi tiếp tục đánh chặn lính dù đang tiếp viện từ Ninh Hòa. “Chúng tôi chỉ có hai khẩu AK, lợi thế ở trên cao. Lúc bắn xuống, lính địch bỏ chạy, nhưng vẫn có nhóm ngoan cố. Cuối trận, chúng tôi bắt sống hơn 10 tên, góp phần mở toang cánh cửa tiến vào miền Trung”.
Với thành tích chiến đấu xuất sắc, ông được tặng Huân chương Chiến công Giải phóng hạng Ba. Sau đó, đơn vị ông hành quân thần tốc từ Cam Ranh lên Tây Ninh, chuẩn bị cho Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Trước giờ bước vào chiến dịch, Tiểu đoàn 5 được chính quyền và nhân dân tỉnh Khánh Hòa trao lá cờ “Quyết thắng”. “Tôi còn nhớ rõ cảm giác khi nhận lá cờ. Đó không chỉ là một biểu tượng, mà là trách nhiệm, là niềm tin gửi gắm của nhân dân vừa được giải phóng cho người lính ra trận”.
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, Tiểu đoàn 5 của ông là đơn vị đi đầu thọc sâu theo hướng ngã ba Bà Quẹo – ngã tư Bảy Hiền, đánh vào cổng số 5 sân bay Tân Sơn Nhất – nơi được xem là một trong những tuyến phòng ngự ngoan cố nhất của địch. Trên đường Võ Tánh, xe tăng cháy rực, khói đen mịt mù, nhiều đồng đội bị ngã xuống. “Tôi còn nhớ rõ đơn vị chúng tôi cắm cờ trên nóc Bộ Tư lệnh Không quân Ngụy, lúc đó đồng hồ điểm gần 11 giờ trưa. Đạn vẫn còn nổ, khói còn chưa tan, vậy mà người dân Sài Gòn đã ùa ra đường, giơ cao lá cờ, ôm lấy chúng tôi, hô vang “Hoan hô Quân giải phóng!”… Chúng tôi ôm nhau, khóc giữa Sài Gòn, giữa đổ nát, nhưng là nước mắt hạnh phúc của người chiến thắng”.
Sau ngày giải phóng, Trung tướng Nguyễn Kim Khoa tiếp tục cống hiến trên nhiều mặt trận. Ông được cử đi học tại Trường Sĩ quan Lục quân 1, sau đó trở lại chiến trường biên giới phía Bắc, tham gia chỉ huy tại mặt trận Vị Xuyên – nơi được mệnh danh là “lò vôi thế kỷ”. Ở tuổi 30, ông trở thành Trung đoàn trưởng Trung đoàn 66, Sư đoàn 10, Quân đoàn 3.
Năm 2004, ông được bổ nhiệm làm Phó Tư lệnh Quân khu 2. Sau đó, ông tiếp tục được bầu làm đại biểu Quốc hội ba khóa liên tiếp, giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội. Trong giai đoạn này, ông tham gia xây dựng nhiều đạo luật quan trọng: Luật Biển Việt Nam; Luật Biên phòng; Luật Cảnh sát biển; Luật Dân quân, tự vệ; Luật Giáo dục quốc phòng- an ninh.
Dù ở bất kỳ cương vị nào, ông cũng luôn giữ cho mình bản lĩnh của người lính. Với ông, bài học lớn nhất trong chiến tranh chính là: “Phát huy sức mạnh tổng hợp của nhân dân. Không chỉ đánh giặc bằng súng, mà bằng trí tuệ, bản lĩnh và lòng yêu nước. Đó chính là nền tảng để làm nên chiến thắng”.
Ở tuổi 70, ông vẫn miệt mài đọc sách, viết hồi ký, viết báo, trò chuyện truyền thống với thế hệ trẻ. Ông cho rằng, trong thời đại công nghệ, trận tuyến không chỉ là biên giới, mà còn trên không gian mạng, trên mặt trận tư tưởng. “Ngày nay, chiến tranh thông tin – chiến tranh mạng là thách thức lớn. Nhưng cốt lõi vẫn là con người. Bản lĩnh, trung thành và ý chí quyết thắng là điều cần được nuôi dưỡng trong mỗi thanh niên”.
“Bài học lịch sử là vốn quý không thể quên”- Lời nhắn gửi của Trung tướng Nguyễn Kim Khoa – người lính già vẫn giữ vẹn nguyên lời thề cũ là hồi chuông nhắc nhở thế hệ hôm nay rằng: Hòa bình có được không dễ dàng, và trách nhiệm giữ nước chưa bao giờ kết thúc.
CAO XUÂN