Người Đất Tổ giữa trùng khơi
QK2 – Chuyến hải trình vượt trùng khơi đến Trường Sa dịp hè vừa rồi, tôi may mắn được gặp những người đồng hương tỉnh Phú Thọ. Những tiếng gọi “quê ơi”, “quê à” thay tên thốt lên giản dị, có lẽ góp phần vợi bớt nỗi nhớ nhà, thêm tình thân, thêm niềm tin, động lực cho những người đồng đội, đồng hương đang thực hiện nhiệm vụ ở nơi cùng trời cuối biển.Và những câu chuyện dung dị làm tôi thấy thêm ấm lòng, thêm tự hào về các anh – những người con Đất Tổ giữa trùng khơi.

Thiếu tá Phan Cao Lâm (bên trái) cùng tác giả ở đảo An Bang.
GỬI “QUÊ” CHÚT TÌNH TRƯỜNG SA
Thiếu tá QNCN Võ Trà Lương công tác ở Vùng 4 Hải quân, quê gốc ở xã Vân Lĩnh, huyện Thanh Ba, Phú Thọ. Bố mẹ anh Lương đã mất, ở quê còn gia đình chị gái. Vợ anh công tác tại chi Cục thuế ở Cam Ranh, Khánh Hòa. Anh coi Khánh Hòa là quê hương thứ hai; tuy vậy, khi có dịp, anh Lương cùng gia đình đều sắp xếp trở về Đất Tổ vào những kỳ nghỉ phép. Những dịp ấy, anh và vợ con cùng gia đình chị làm giỗ, thắp hương gia tiên, đi thăm họ hàng, người thân.
Tôi gặp Lương khi anh đang công tác ở đảo Sinh Tồn. Anh chia sẻ, sau 33 năm nhập ngũ, đây là năm thứ 31 anh gắn bó với Hải quân, lần này công tác ở Sinh Tồn là lần thứ 7 sống và làm nhiệm vụ trên các hòn đảo giữa đại dương. 7 lần ra công tác ngoài đảo, cả đảo chìm, đảo nổi, tổng cộng hơn chục năm trực tiếp sống và làm nhiệm vụ trên đảo. Những khó khăn, thiếu thốn giữa trùng dương giờ trở thành bình thường vì đã quá quen thuộc, phải vượt lên để hoàn thành nhiệm vụ và coi nhiệm vụ là trên hết, trước hết, nhưng tình hậu phương, tình quê hương trong sâu thẳm vẫn luôn canh cánh trong lòng. Mỗi đợt cán bộ, chiến sĩ ra thay phiên công tác, hay mỗi chuyến tàu ra đảo, anh đều có ý tìm gặp xem ai là đồng hương để thăm hỏi chút ít thông tin nơi quê nhà.
Hôm gặp tôi, dù là lần đầu nhưng người lính can trường sóng gió ấy xoắn xuýt như từng thân thiết từ lâu gặp lại, tranh thủ vài phút ít ỏi thăm hỏi, chia sẻ vài câu chuyện mà chỉ những người cùng quê với nhau mới có cảm xúc ấy. Lúc chuẩn bị chia tay, anh bảo, công tác ở đảo chẳng có gì, nếu “quê” mang được cây bàng vuông giống về trồng thì tốt, thực hiện chương trình ươm cây “Xanh hóa Trường Sa”, tôi có ươm thêm vài cây ở góc vườn rau trên đảo, gửi “quê” chút “tình Trường Sa” mang về quê.
Gặp rồi lại vội chia tay, mang theo cây bàng vuông cao hơn gang tay, mầm lá ngọn non đỏ nâu đầy sức sống được ươm trong ống bơ sữa bột đựng cát Trường Sa. Từ khi trở về đất liền, “quê” Lương vẫn nhắn tin qua zalo hướng dẫn trồng, chăm sóc cây bàng. Lương nhắn: “Giống quả bàng vuông sinh sôi ở Trường Sa, không thể quên đặc tính khí hậu và sinh tồn ở biển, khi trồng ra đất phải trộn thêm cát mới sống khỏe được, sau này nhắc nhở mọi người nhất là con cháu, rằng quê mình cũng có những người làm nhiệm vụ ở Trường Sa. Bảo vệ Trường Sa là trách nhiệm của tất cả mọi người!”
Và tôi còn biết, “tình Trường Sa” đã được “quê” Lương gửi về trồng ở một số cơ quan, trường học trong tỉnh Phú Thọ qua một vài đồng hương gặp vội.
ĐẢO SƠN CA – ĐIỂM ĐẦU HÀNH TRÌNH GIỮA BIỂN KHƠI
Hòn đảo An Bang xinh đẹp được ví như “hòn ngọc” xanh mát giữa lòng Trường Sa. Sáng hôm ấy, trong lúc tổ chức và tham gia giao lưu văn nghệ giữa cán bộ chiến sĩ đảo An Bang và Đoàn công tác số 19/2024 – Quân chủng Hải Quân ra thăm, tôi gặp Thiếu tá Phan Cao Lâm, cán bộ đang công tác trên đảo An Bang. Lâm quê xã Dân Quyền, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ. Anh hồ hởi khi gặp đồng hương và tíu tít kể về cuộc sống gia đình, những vui buồn khi làm nhiệm vụ trên đảo.

Thiếu tá Nguyễn Hữu Toàn làm nhiệm vụ ở Nhà giàn Huyền Trân.
Tốt nghiệp sĩ quan năm 2011, Phan Cao Lâm được điều về Quân chủng Hải quân công tác, điều đó cũng thỏa ước nguyện từ nhỏ được làm nhiệm vụ gắn bó với sông nước. Sau 3 năm, anh được điều động ra đảo làm nhiệm vụ. Đến nay sau 10 năm, anh đã công tác ở 5 đảo và điểm đảo khác nhau. Cuộc sống sinh hoạt, làm nhiệm vụ trên đảo ngày càng được sự quan tâm nhiều hơn từ đất liền, dần khấm khá hơn. Tuy nhiên, với người lính Hải quân, vất vả nhất vẫn là sự xa cách, thiếu tình người thân, gia đình. Giờ thông tin, điện thoại cũng thuận tiện, nhưng không thể thay thế được ở gần để gánh vác, đỡ đần gia đình, vợ con.
Chàng sĩ quan Hải quân Cao Thanh Lâm ấy cưới vợ năm 2014. Vợ chồng quen nhau từ khi cả hai là sinh viên. Thời ấy, vợ Lâm còn ở quê chưa có việc làm ổn định. Vợ chồng cưới nhau dù có tin vui ngay nhưng chưa kịp quen hơi thì anh nhận nhiệm vụ ra đảo công tác. Điểm dừng đầu tiên của Lâm là đảo Sơn Ca. Lúc ấy vợ anh đang mang thai cháu đầu tiên, và cái tên Sơn Ca được vợ chồng Lâm đặt cho con gái để kỷ niệm ngày con chào đời, bố Lâm đang làm nhiệm vụ canh giữ biển trời ở đảo Sơn Ca.
Đến bây giờ thì vợ Lâm đã làm giáo viên mầm non và ổn định cuộc sống gia đình ở Cam Ranh, Khánh Hòa. Hằng năm, cả gia đình vẫn dành thời gian tìm về quê hương Đất Tổ.
KẾT NẠP ĐẢNG TRÊN TÀU ĐANG CẬP ĐẢO
Nắng gió giữa đại dương cùng hơi mặn của biển dường như chát chúa hơn trên đất liền. Nhà giàn DK1/Huyền Trân chênh vênh trong nắng gió và sóng một sáng tháng 5. Những người lính trên tàu Kiểm ngư 491 nói, gió này có thể lên nhà giàn được.
Theo các anh, 19 đoàn công tác năm nay, mới chỉ có 7 đoàn may mắn cập và cho đại biểu leo lên được nhà giàn. Điều kiện cần là có sức khỏe, bản lĩnh, một chút “máu liều”, tâm lý vững đến độ nhất định mới vượt sóng dữ leo được lên nhà giàn nhưng phải thực hiện theo hướng dẫn khá ngặt nghèo của các chiến sĩ, vì rất dễ sơ sẩy, nguy hiểm đến tính mạng.
Trên nóc nhà giàn thênh thang, một vài đại biểu lên thăm, thích thú ngắm cảnh biển từ vị trí cao nhất có thể. Thiếu tá QNCN Nguyễn Hữu Toàn đang mang súng thực nhiệm vụ. Nước da đen sạm, nụ cười sáng lấp lánh trong bộ quân phục dã chiến, Toàn vừa làm nhiệm vụ, vừa tận tình hướng dẫn, hỗ trợ các đại biểu tham quan, leo lên, xuống nóc nhà giàn. Được giới thiệu có đồng hương trong đoàn, mắt Toàn sáng lên.

Thiếu tá QNCN Võ Trà Lương cùng chiến sĩ chăm sóc cây bàng vuông trên đảo Sinh Tồn.
Năm 1992, chàng trai trẻ Nguyễn Hữu Toàn tạm biệt quê hương phường Âu Cơ, thị xã Phú Thọ tình nguyện nhập ngũ vào Quân chủng Hải quân. Khi đó, anh làm nhiệm vụ tại Lữ đoàn 125 và anh gắn bó với đơn vị ấy, đóng quân ở thành phố Hồ Chí Minh suốt một phần tư thế kỷ. Anh bảo, làm nhiệm vụ ở đơn vị kỹ thuật chiến đấu, đi công tác trên biển dài ngày liên tục, lênh đênh trên tàu và hầu hết các đảo, điểm đảo, nhà giàn, anh đều đặt chân tới. Sau này được biên chế về đơn vị Nhà giàn Vùng 2 Hải quân, anh trực tiếp thực hiện nhiệm vụ tại các nhà giàn.
Nguyễn Hữu Toàn kể một kỷ niệm khó quên, đó là vào năm 2000, đúng dịp kỷ niệm 110 năm Ngày sinh Bác Hồ, anh đang theo đoàn công tác trên một chuyến tàu neo ở đảo Sơn Ca. Lúc ấy, có điện của Đảng ủy Lữ đoàn từ đất liền thông báo đã có quyết định chuẩn y kết nạp anh vào Đảng và yêu cầu đại diện cấp ủy tổ chức lễ kết nạp ngay trên tàu. Lòng vui sướng lâng lâng, sau nhiều năm phấn đấu, anh được đứng trong hàng ngũ của Đảng, thỏa kỳ vọng của bố anh – nguyên là lãnh đạo của Bệnh viện thị xã Phú Thọ. Dù điều kiện đơn sơ hơn đất liền, nhưng tất cả cán bộ, đảng viên, chiến sĩ bắt tay chuẩn bị, buổi lễ diễn ra đúng thủ tục nghi thức, trang nghiêm. Lời thề của người đảng viên mới trước Đảng kỳ, Quốc kỳ ngày ấy đến nay vẫn còn nguyên cảm xúc trong anh.
Trở về đất liền, thỉnh thoảng rỗi rãi, Toàn vẫn thường điện thoại chia sẻ với đồng hương. Hoàn cảnh người lính Hải quân mới gặp một lần ở Nhà giàn Huyền Trân ấy cũng khá vất vả. Anh và vợ quen biết và yêu nhau từ khi học chung lớp Trung cấp y ở Phú Thọ cho đến khi nhập ngũ. Trước khi quyết định về chung một nhà, anh chị đã bàn bạc và thống nhất, nếu chấp nhận sự xa nhau biền biệt thì mới đến với nhau. Sau thời gian đắn đo suy tính, tình yêu đã vượt lên thử thách, nhưng dự cảm biền biệt trở thành hiện hữu. 32 năm bộ đội thì cả chừng ấy năm anh đóng quân và làm nhiệm vụ ở phía Nam. Vợ anh vẫn ở quê nhà, phải nghỉ việc công sở bởi một mình lo chăm sóc gia đình, con cái. Mỗi năm, thường “Ông Ngâu”, “bà Ngâu” ấy được gặp nhau một lần vào dịp anh đi phép hoặc về nghỉ Tết Nguyên đán; hoặc cũng có lúc năm có, năm không do nhiệm vụ. Có những đồng đội nhà gần hơn có ý nhường tiêu chuẩn đi phép cho Toàn, nhưng anh bảo, là lính biển, hầu như ai cũng xa gia đình, thiếu thốn tình cảm nên chỉ đi theo tiêu chuẩn được hưởng.
10 ngày hải trình Trường Sa, tôi hiểu thêm một phần nhiệm vụ và cảm nhận tình cảm những người giữ biển, trong đó có những người đến từ vùng quê Đất Tổ mà tôi mới chỉ may mắn gặp 3 người lính. Cả ba nước da đều sạm nắng, màu nâu như bánh bột sắn khô ngào mật của người miền Trung du vốn quen với sắn, tre, chè, cọ. Gặp các “quê” một lần, đặc tính chân chất dễ gần khiến tôi có cảm giác như thân quen từ lâu. Các anh được hòa vào cuộc sống đồng đội, được làm nhiệm vụ thiêng liêng nơi đầu sóng ngọn gió. Chỉ là những người lính bình dị nhưng các anh đều là những người có trách nhiệm, gắn bó với nhiệm vụ, bao trùm đó là sự dấn thân, hy sinh cuộc sống riêng vì nhiệm vụ, vì trách nhiệm và tình yêu Tổ quốc, là nỗi nhớ quê hương và có trách nhiệm với gia đình, người thân. Đi công tác xa, gặp đồng hương đang ngày đêm vượt sóng gió trùng khơi, tôi cảm nhận vẹn nguyên tình thân của người quê Đất Tổ.
ĐỨC ĐÀO – TUẤN NGỌC