Đồng bào Tây Bắc đoàn kết như anh em một nhà
QK2 – Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến đồng bào các dân tộc Tây Bắc. Người thường xuyên gửi thư động viên, đến thăm nói chuyện với đồng bào, cán bộ, chiến sĩ (CB,CS) các tỉnh trên địa bàn Quân khu. Mỗi lần nhận thư Bác hoặc được đón Bác về thăm, đồng bào, CB,CS đều ngập tràn niềm tin yêu, xúc động.
Vào dịp kỷ niệm 5 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đoàn cán bộ của Trung ương đã về thăm và nói chuyện với CB,CS, đồng bào Khu tự trị Thái – Mèo tại Sơn La. Bác đã ân cần thăm hỏi, khen ngợi đồng bào, bộ đội đã đoàn kết chặt chẽ với nhau, kháng chiến anh dũng, bảo vệ bản Mường, đại thắng giặc Pháp. Người nhắc đồng bào, bộ đội cần ra sức thi đua sản xuất và tiết kiệm, làm cho đời sống ngày càng no ấm và vui tươi hơn nữa… Người căn dặn: “…đồng bào, bộ đội và cán bộ phải cùng nhau đoàn kết phấn đấu để giành lấy một thắng lợi to hơn nữa là tiêu diệt cho hết giặc đói, giặc dốt, làm cho mọi người đều được no ấm, đều biết chữ, làm cho mọi người đều được hưởng hạnh phúc, yên vui…”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm và nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ, đồng bào các dân tộc Tây Bắc tại Thuận Châu, ngày 7/5/1959.
Với đồng bào các dân tộc tỉnh Yên Bái, được đón Bác trong dịp kỷ niệm Quốc khánh đất nước (ngày 25/9/1958) là niềm vinh dự, tự hào lớn lao. Tại cuộc mít tinh của rất đông đồng bào, được nghe Bác nói chuyện. Bác nói: “Tỉnh nhà có 10 dân tộc anh em. Trước kia bọn thực dân phong kiến chia rẽ chúng ta, chia rẽ các dân tộc, xúi giục dân tộc này hiềm khích oán ghét dân tộc khác để chúng áp bức bóc lột chúng ta. Nay chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ. Ví dụ: 10 dân tộc ở tỉnh nhà như 10 ngón tay. Nếu xoè 10 ngón tay mà bẻ từng ngón, như thế có dễ bẻ không? Nếu nắm chặt cả 10 ngón tay thì có bẻ được không? Nếu kẻ nào chia rẽ thì phải làm thế nào? Thì phải đập vào đầu chúng nó. Đó là điểm thứ nhất tại sao phải đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc”.
Tại Tuyên Quang, vùng căn cứ địa cách mạng còn mãi in hình bóng Bác. Suốt quãng thời gian đón Bác cùng các cơ quan Trung ương trở lại lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp, Tuyên Quang trở thành mảnh đất “Thủ đô gió ngàn – Thủ đô kháng chiến”. Trong 9 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, Bác Hồ và Trung ương đã làm việc tại Tuyên Quang gần 6 năm với nhiều địa điểm khác nhau thuộc các huyện Sơn Dương, Yên Sơn, Chiêm Hóa. Trong thời gian này, người dân đã được trực tiếp tiếp xúc, trực tiếp làm việc, phục vụ hoặc được đón nhận tình cảm của Bác. Người đã cùng Trung ương Đảng tổ chức thành công nhiều sự kiện quan trọng của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận… quyết sách những vấn đề trọng đại lớn để kiến quốc và kháng chiến đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Trở lại mảnh đất Tuyên Quang 7 năm sau khi trở về Thủ đô Hà Nội, ngày 19, 20/3/1961, cán bộ, nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang vinh dự được đón Bác Hồ về thăm. Trong buổi nói chuyện với đồng bào các dân tộc của tỉnh, Bác căn dặn: “Trước kia, đồng bào tỉnh ta đã góp phần xứng đáng trong Cách mạng Tháng Tám và cuộc kháng chiến cứu nước. Ngày nay, tôi chắc rằng đồng bào ta sẽ phát huy truyền thống anh dũng sẵn có và góp phần nhiều hơn nữa trong công cuộc kiến thiết chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà…”.
Phú Thọ, mảnh đất cội nguồn dân tộc vinh dự được Bác 9 lần về thăm, làm việc, chỉ đạo, nói chuyện, động viên. Mỗi lần về, Bác cũng để lại những tình cảm sâu đậm trong lòng đồng bào. Tháng 9/1954, trên đường từ chiến khu Việt Bắc về Thủ đô sau thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Bác Hồ đã đến thăm Đền Hùng và đây là lần thứ 3 Bác về thăm Phú Thọ. Ngày 19/9/1954, Bác đã gặp và nói chuyện với các CB,CS Đại đoàn Quân Tiên Phong tại Đền Giếng. Người đã căn dặn CB,CS Đại đoàn Quân Tiên Phong khi vào thành phố phải giữ gìn quân phong, giữ nghiêm kỷ luật, tôn trọng và giúp đỡ nhân dân, tránh bị sa ngã, cám dỗ trước những “viên đạn bọc đường”. Người đã truyền dạy lời “hịch” non sông: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước/ Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.

Tượng đại Bác Hồ với đồng bào các đân tộc tỉnh Tuyên Quang tại Quảng trường Nguyễn Tất Thành.
Đồng bào các dân tộc Hà Giang không quên 8 điều Bác dạy trong cuộc nói chuyện của Bác vào ngày 26 và 27/3/1961. Bác dạy rằng: “Tất cả các dân tộc đều phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ nhau như anh em một nhà; ra sức tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm; muốn sản xuất tốt phải có đủ nước, nhiều phân bón và cải tiến nông cụ; phát triển chăn nuôi gia súc sẽ đem lại nguồn lợi lớn; bảo vệ rừng, trồng cây gây rừng, cây ăn quả và cây làm thuốc; chú ý vệ sinh, ăn sạch, uống sạch, mặc sạch, ở sạch; xóa nạn mù chữ, biết đọc, biết viết làm ăn mới tiến bộ; cán bộ, đảng viên và đoàn viên đoàn kết chặt chẽ, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân trên lợi ích riêng của mình, phải gương mẫu trong đoàn kết dân tộc, trong học tập và trong lao động sản xuất, chống tham ô, lãng phí, quan liêu, mệnh lệnh…”.
Không thể kể hết những lời Bác dạy, những tình cảm của Bác với CB,CS và đồng bào các dân tộc trên địa bàn phía Bắc Tây Bắc. Những tình cảm sâu đậm đó trở thành mạch nguồn, lẽ sống của đồng bào, trong đó xuyên suốt nhất trong tư tưởng, tình cảm của Bác là đồng bào phải biết đoàn kết, thương yêu nhau như anh em một nhà.
Học tập, noi gương Bác, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trên địa bàn Quân khu luôn đoàn kết, thương yêu, đùm bọc nhau để tiến bộ, trưởng thành, góp sức xây dựng quê hương Tây Bắc ngày càng giàu đẹp. Cuộc sống đồng bào ngày càng khang trang, ấm no. Trên các ngả đường Tây Bắc, đâu đâu cũng rộn vang tiếng cười hạnh phúc. Quảng trường Bác Hồ với đồng bào tại các tỉnh trở thành những trung tâm sinh hoạt chính trị của toàn dân, quy tụ lòng người của các địa phương. Tây Bắc đổi mới tươi đẹp, hôm nay và mai sau mãi in hình bóng Bác và khắc ghi trong tim lời căn dặn của Người: Đồng bào các dân tộc Tây Bắc phải đoàn kết như anh em một nhà, sẵn sàng bước vào kỷ nguyên mới.
VIỆT LONG