Bản hùng ca giữa núi rừng Bắc Lào
QK2 – Hơn ba thập kỷ bền bỉ giữa đại ngàn Tây Bắc nước bạn, những người lính Đội quy tập hài cốt liệt sĩ (HCLS) Cục Chính trị Quân khu 2 đã âm thầm bước qua bao đỉnh núi, băng rừng vượt suối để đưa đồng đội trở về với Tổ quốc. Mỗi cuộc hành trình là một bản hùng ca không lời, chan chứa nước mắt, tình đồng đội, tình hữu nghị Việt – Lào. Loạt bài này xin kể lại hành trình thiêng liêng ấy – không chỉ là nhiệm vụ quân sự đặc biệt, mà còn là biểu tượng sống động của công tác đối ngoại nhân đạo, đối ngoại quốc phòng thời bình, góp phần bồi đắp niềm tin chiến lược, lan tỏa giá trị Việt Nam trong lòng nhân dân bạn.
Kỳ 1: Hành trình tri ân – ba mươi năm chưa nghỉ
Được thành lập năm 1994, Đội quy tập HCLS Cục Chính trị Quân khu 2 được giao nhiệm vụ đặc biệt: tìm kiếm, quy tập, hồi hương HCLS là quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam đã hy sinh tại 6 tỉnh Bắc Lào. Trải qua ba mươi năm kiên trì thực hiện nhiệm vụ, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ (CB,CS) của Đội không ngơi nghỉ, để lại dấu chân tri ân trên khắp rừng núi xứ bạn, góp phần làm nên một biểu tượng đẹp của tình hữu nghị Việt – Lào, đồng thời khẳng định vị thế, bản lĩnh và trách nhiệm quốc tế của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Cán bộ, đội viên Đội Quy tập mộ liệt sĩ Cục Chính trị Quân khu 2 thực hiện nhiệm vụ cất bốc hài cốt liệt sĩ tại bản Mường Ngòi, tỉnh Luông Pha Băng (nước CHDCND Lào).
MỘT MỆNH LỆNH KHÔNG LỜI, BA THẬP KỶ CHƯA DỪNG BƯỚC
Ngày 17 tháng 6 năm 1994, từ Chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và biên bản hợp tác giữa Chính phủ hai nước Việt Nam – Lào, Đội quy tập HCLS Cục Chính trị Quân khu 2 chính thức được thành lập. Địa bàn được giao gồm 6 tỉnh Bắc Lào – nơi từng là chiến trường khốc liệt, nơi hàng vạn quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam đã chiến đấu và ngã xuống vì độc lập tự do của nhân dân hai nước.
Ba mươi năm không nghỉ, 1.851 hài cốt đã được Đội tìm kiếm, quy tập và hồi hương về Việt Nam. Trong đó, 389 liệt sĩ có đủ họ tên, quê quán đã bàn giao cho 27 tỉnh, thành trong nước đón nhận những người con trở về sau bao năm biệt tích. Mỗi hài cốt là một phần lịch sử, mỗi lần hồi hương là một lần Tổ quốc ghi ơn.
Nhớ lại những ngày đầu thành lập, trang thiết bị còn đơn sơ, thông tin mộ chí mờ nhạt, Đại tá Dư Công Thịnh, Đội trưởng chia sẻ: “Thời đó, anh em trong đội chủ yếu dùng cuốc xẻng, đi rừng bằng bản đồ giấy, ban đêm ngủ lán dựng tạm. Đến nay, điều kiện có khá hơn về tổ chức nhưng vẫn chưa được trang bị máy dò địa từ hay thiết bị định vị hiện đại, nên mọi thứ vẫn dựa vào sức người và kinh nghiệm. Khó khăn là vậy, nhưng ai cũng có một niềm tin: chỉ cần thêm một liệt sĩ được trở về là mọi vất vả đều xứng đáng”.
Trải qua các giai đoạn, từ những năm đầu đầy thiếu thốn cho đến khi được trang bị đầy đủ hơn, Đội vẫn giữ vững phương châm “đi là tìm, tìm là thấy, thấy là đưa các anh về với đất mẹ”. Các mốc quy tập đáng nhớ như đợt năm 2001 tại Phu Sẳm Phăn, năm 2008 ở Xayaboury hay năm 2015 tại Luông Pha Bang… đều để lại dấu ấn sâu đậm trong hành trình tri ân của những người lính thời bình.
BẢN SINH CHẠ LƠN VÀ NHỮNG CUỘC GẶP GỠ VƯỢT THỜI GIAN
Giữa mùa khô 2024 – 2025, tại bản Sinh Chạ Lơn, huyện Mường Sinh, tỉnh Luông Nậm Thà – nơi từng là chiến trường ác liệt, một cuộc tìm kiếm đã khiến cả Đội không thể nào quên. Nhận được thông tin từ ông Sổm Si, trưởng bản, rằng cha ông từng tham gia chôn cất bộ đội Việt Nam, Đội đã theo chân ông vượt rừng hơn ba giờ đồng hồ để đến khu vực được chỉ dẫn. Sau nhiều ngày đào bới, chiếc xẻng khẽ chạm vào một vật thể là túi nilông bọc kỷ vật. “Tôi còn nhớ lúc đó trời nắng như đổ lửa, nhưng ai cũng nín thở. Khi mở túi, thấy mảnh giấy bên trong lọ thuốc đã mờ, mà vẫn đọc được tên và quê quán của liệt sĩ là Linh Quang Giắng. Cả đội nghẹn ngào. Tôi đã đi nhiều mùa, nhưng chưa bao giờ cảm thấy sự kết nối giữa quá khứ và hiện tại rõ đến vậy” – Đại tá Thịnh xúc động kể.
Cũng trong đợt ấy, lễ truy điệu được tổ chức ngay tại rừng. Một lá cờ Tổ quốc phủ lên ba lô đựng hài cốt, khói hương lan giữa không gian tĩnh mịch, khiến người chứng kiến cảm nhận được sự trở về thật sự, không chỉ là thể xác, mà là linh hồn, ký ức và danh tính.
Không dừng lại ở đó, nhiều cuộc tìm kiếm tiếp theo đã mang lại kết quả quý báu. Có nơi, lọ thuốc Penicillin còn chứa mảnh giấy ghi tên tuổi liệt sĩ. Có lần, cúc áo, đế giày, mảnh quân phục – những vật tưởng như vô tri lại trở thành cầu nối dẫn đường trở về.
Thượng úy Hà Văn Hiền, Nhân viên trinh sát nhớ lại: “Mỗi khi đào lên được mảnh vải áo, cái đế giày, cả đội lại nín lặng. Có khi chỉ một dấu vết nhỏ cũng khiến anh em rơi nước mắt. Bởi đó không chỉ là kỷ vật mà là một phần linh hồn”.
ĐỐI NGOẠI QUỐC PHÒNG BẰNG NHỮNG BƯỚC CHÂN LẶNG THẦM
Đội quy tập không đơn thuần là những người lính đi tìm mộ, mà là sứ giả hoà bình, nhân đạo. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, mối quan hệ giữa Đội và chính quyền, nhân dân các tỉnh Bắc Lào ngày càng sâu đậm. Những người dân như ông Sổm Si, hay đồng chí Thong Đeng, Phó trưởng phòng Lao động và Phúc lợi xã hội huyện Mường Ngà đều là những người bạn chí tình của Đội. “Chúng tôi coi các anh bộ đội Việt Nam như người thân. Họ đi không biết mệt, chỉ mong đưa đồng đội về. Mỗi lần tìm thấy liệt sĩ, dân bản ai cũng xúc động như chính người nhà mình vậy” – ông Sổm Si bày tỏ.
Chính những tình cảm ấy đã làm nên sức mạnh mềm trong công tác đối ngoại quốc phòng, điều mà không một văn kiện, công hàm nào có thể thay thế. Sự tận tụy của cán bộ, nhân viên Đội quy tập từ việc giúp bà con sửa đường, cấp phát thuốc, đến việc giữ gìn tôn trọng phong tục tập quán đã khiến hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ lan tỏa mạnh mẽ, bền lâu.
Thiếu tướng Nguyễn Hồng Thái, Phó Chính ủy Quân khu 2, từng phát biểu tại lễ kỷ niệm 30 năm thành lập Đội rằng: “Không chỉ là hành trình tìm mộ liệt sĩ, đó còn là hành trình vun đắp tình hữu nghị vĩ đại Việt – Lào. Mỗi CB,CS Đội quy tập là một chiến sĩ đối ngoại quốc phòng âm thầm mà kiên định”.
Trong điều kiện quốc tế hiện nay, khi đối ngoại nhân đạo trở thành một phần quan trọng của quốc phòng hiện đại, thì chính những người lính âm thầm ấy đang giữ gìn và nối dài tình hữu nghị bằng những hành động đậm chất nhân văn sâu sắc.
Bài, ảnh: XUÂN PHÚ – TIẾN THẾ – TUẤN NGỌC
Kỳ 2: Băng rừng, vượt suối tìm người nằm lại