Chín lần Bác Hồ về thăm Phú Thọ – Dấu ấn thiêng liêng nơi tình yêu Đất Tổ
QK2 – Phú Thọ – Vùng đất cội nguồn của dân tộc, nơi các Vua Hùng dựng nước – đã nhiều lần vinh dự được đón Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, dù luôn bộn bề lo toan việc nước, song Bác vẫn luôn dành tình cảm đặc biệt – một tình yêu thương sâu nặng với đồng bào vùng Đất Tổ.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã 9 lần về thăm, làm việc tại tỉnh Phú Thọ. Mỗi lần ghé thăm là một lần Người để lại những tình cảm sâu sắc, những lời căn dặn ân cần đối với Đảng bộ, chính quyền và nhân dân.

Bác Hồ nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn Quân Tiên Phong tại Đền Giếng, Đền Hùng (Phú Thọ), ngày 19/9/1954: Ảnh tư liệu.
Lần thứ nhất, Bác Hồ về Phú Thọ những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, từ ngày 4/3 đến ngày 01/4/1947, trong hành trình Người từ Hà Nội lên Việt Bắc lãnh đạo toàn dân kháng chiến. Người đã dừng chân tại các xã Cổ Tiết (Tam Nông), Chu Hóa (Lâm Thao) và Yên Kiện (Đoan Hùng). Thời gian làm việc tại đây, Người nhắc nhở các đồng chí lãnh đạo Đảng cần nghiên cứu kinh nghiệm đánh giặc giữ nước của các thế hệ cha anh đi trước để vận dụng trong cuộc khánh chiến chống thực dân Pháp; đồng thời phải ghi nhớ nhiệm vụ quan trọng nhất lúc này là cùng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ đi đến thắng lợi. Người kịp thời động viên những mặt làm tốt, chỉ bảo những việc làm chưa tốt của các cán bộ và nhân dân địa phương.
Lần thứ hai, Bác đến thăm cán bộ chiến sĩ Đại đoàn 312 tại hội nghị ở xóm Cúng, xã Đại Phạm, huyện Hạ Hòa để giao nhiệm vụ trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám vào tháng 3 năm 1951. Người căn dặn: “Muốn đánh thắng, trước hết phải đoàn kết chặt chẽ và có quyết tâm cao”.
Lần thứ ba, Bác Hồ thăm viếng Đền Hùng và gặp gỡ cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn Quân Tiên Phong 308 ngày 18 và 19/9/1954 khi Người cùng phái đoàn Chính phủ về tiếp quản Thủ đô Hà Nội theo điều khoản ký kết tại Hiệp định Giơ-ne-vơ. Tại đây, Bác nghe đồng chí Thanh Quảng (Chánh văn phòng Quân ủy Trung ương) và đồng chí Song Hào (khi đó là Chính ủy của Đại đoàn 308) báo cáo tình hình, Khoảng 10 giờ ngày 19/9/1954, Bác đã gặp các cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn 308 tại Đền Giếng, Người căn dặn cán bộ, chiến sĩ khi vào thành phố, phải giữ gìn quân phong, giữ nghiêm kỷ luật, tôn trọng và giúp đỡ nhân dân, tránh sa ngã, cám dỗ, trước những “viên đạn bọc đường”. Bác nhấn mạnh: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Lời dặn tâm huyết của Bác không chỉ đối với các cán bộ, chiến sĩ về tiếp quản Thủ đô, mà còn xác định ý thức, trách nhiệm đối với quê hương, đất nước cho các thế hệ hôm nay và mai sau.
Lần thứ tư, Bác về thăm công trường khôi phục Cầu Việt Trì vào ngày 12/2/1956 (tức ngày mùng 1 Tết Bính Thân). Người thăm, chúc Tết và căn dặn anh chị em công nhân ra sức thi đua hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch; thi đua làm mau, làm tốt, làm rẻ; kết hợp chống tham ô, lãng phí. Đoàn kết với nhau và với các đồng chí bạn; học tập những kinh nghiệm quý báu của bạn. Sau nửa năm lao động khẩn trương, ngày 23/3/1956, Cầu Việt Trì được xây dựng xong, thông suốt giao thông đường sắt và đường bộ, nối liền các tỉnh phía Bắc với các tỉnh đồng bằng và Thủ đô Hà Nội.

Năm1962, Bác Hồ về thăm thị xã Phú Thọ, Người trò chuyện, căn dặn nhiều việc làm cụ thể trước hơn 3 vạn người: Ảnh tư liệu.
Lần thứ năm, Bác Hồ về thăm Đảng bộ và nhân dân tỉnh Phú Thọ ngày 20/7/1958. Người đã họp với các đồng chí lãnh đạo tỉnh, dự “Hội nghị phát động phong trào thi đua sản xuất vụ mùa của tỉnh Phú Thọ” và nói chuyện với hơn 2.000 cán bộ từ tỉnh đến xã, khen ngợi thành tích đạt được và chỉ ra những hạn chế yếu kém trong những năm khôi phục kinh tế. Người nhắc nhở Đảng bộ và nhân dân tỉnh:“kiên quyết sửa chữa những khuyết điểm, ra sức thi đua sản xuất, đảm bảo vụ mùa thắng lợi. Muốn được như thế phải biến quyết tâm của Đảng và Chính phủ thành quyết tâm của toàn cán bộ và toàn thể nhân dân, phải đánh tan tư tưởng tiêu cực, bi quan, ngại khó, cán bộ từ tỉnh đến xã phải đi sát với quần chúng, phải nắm lấy một số nơi, tham gia lao động với quần chúng, học tập kinh nghiệm và sáng kiến của quần chúng để lãnh đạo quần chúng một cách thiết thực và toàn diện; các cấp ủy Đảng, chính quyền cùng nhân dân định kế hoạch cụ thể; phải phát triển và củng cố tổ đổi công và làm cho hợp tác xã nông nghiệp thật vững chắc”.
Lần thứ sáu, Bác Hồ về thăm công trường xây dựng Khu Công nghiệp Việt Trì ngày 13/4/1959: Bác đã có buổi nói chuyện với anh chị em công nhân, Người nói: “Đây là khu công nghiệp đầu tiên của nước ta. Xưa các Vua Hùng đã chọn làm nơi đóng đô dựng nước. nay ta xây dựng Đất Tổ thành một khu công nghiệp to lớn, cơ sở của chủ nghĩa xã hội. Từ đây ta sẽ bắt đầu cho công cuộc xây dựng to lớn của cả đất nước. Vinh dự này là thuộc về các cô, các chú đang xây dựng Đất Tổ… Bác mong các cô, các chú cùng thi đua xây dựng sao cho các nhà máy được ra đời để hoạt động càng sớm càng tốt, để ta có được những sản phẩm tự lực cánh sinh mà ta xưa nay vẫn phải mua của nước ngoài”.
Những lời căn dặn của Bác là nguồn động viên to lớn đối với cán bộ, công nhân đang xây dựng Khu Công nghiệp Việt Trì. Sau hơn 3 năm xây dựng, ngày 18/2/1962 Khu Công nghiệp Việt Trì đã được khánh thành và đi vào hoạt động.
Lần thứ bảy, ngày 20/3/1961, Bác về thăm Đồng Tâm – Hợp tác xã Nông nghiệp điển hình tiên tiến của tỉnh Phú Thọ (nay là thị trấn Đoan Hùng). Trong chuyến thăm này, bác đã nói chuyện với hơn 200 cán bộ, xã viên của Hợp tác xã (HTX). Bác thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ, Bác khen ngợi cán bộ, đảng viên, đoàn viên và bà con xã viên HTX; nói về trách nhiệm xây dựng HTX, Bác nói: “Đồng Tâm là cùng một lòng, mọi người cùng một lòng là rất tốt. Muốn hợp tác xã vững mạnh cán bộ phải gương mẫu, liêm khiết, không được tham ô, không được làm việc xấu; tổ chức và quản lý cho tốt; phân phối sản phẩm cho công bằng. Còn bà con xã viên muốn hợp tác xã vững mạnh phải đoàn kết chặt chẽ, phải có tinh thần làm chủ và hăng hái tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, không vì lợi ích riêng mà sao nhãng việc công…”.
Lần thứ tám, năm 1962 nhân dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, Bác về thăm Đảng bộ và nhân dân tỉnh Phú Thọ lần thứ 2. Thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ, Bác thân ái hỏi thăm đồng bào các dân tộc, bộ đội, công an, dân quân, anh hùng lao động và chiến sĩ thi đua trong toàn tỉnh. Người nói: “Bác tin rằng Đảng bộ Phú Thọ sẽ cố gắng lãnh đạo nhân dân tỉnh ta tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, hoàn thành và hoàn thành vượt mức những nhiệm vụ Đảng đã giao phó, trở nên tỉnh tiên tiến để góp phần đắc lực vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc”. Dịp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi thăm HTX Nam Tiến và Nhà máy Supe Phốt phát Lâm Thao.

Bác Hồ về Thăm xã Vinh Quang, huyện Thanh Thuỷ năm 1964
Lần thứ chín, Bác về thăm xã Vinh Quang (nay là Đào Xá (huyện Thanh Thủy) ngày 26/1/1964. Đây là địa phương có phong trào trồng cây khá nhất miền Bắc trong thi đua thực hiện “Tết trồng cây”. Bác biểu dương tinh thần gương mẫu của các cụ phụ lão trong xã đã và đang đi đầu trong việc trồng cây. Bác chúc đồng bào ăn Tết vui vẻ, tiết kiệm và trồng thật nhiều cây. Người cũng không quên nhắc nhở Đảng bộ và nhân dân xã Vinh Quang phải chăm sóc các cháu thiếu niên, nhi đồng thật tốt. Tiếp tục phấn đấu trên tất cả các mặt sản xuất, văn hóa để đời sống nhân dân ngày càng ấm no và văn minh hơn. Về thăm xã Vinh Quang cũng là lần cuối cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm tỉnh Phú Thọ.
Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, tỉnh Phú Thọ vinh dự và tự hào được tham gia bảo quản thi hài Bác. Căn cứ bảo quản thi hài Bác được lựa chọn xây dựng tại xã Cự Thắng, huyện Thanh Sơn với mật danh H21. Đúng 21 giờ ngày 11/7/1972, thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh được di chuyển từ K84 qua sông Đà đến căn cứ H21. Và để thuận tiện cho việc lưu giữ, 21h ngày 8/02/1973, thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rời căn cứ H21 trở lại căn cứ K84 cho đến ngày 18/7/1975.
Mỗi lần về thăm Phú Thọ, dù thời gian ngắn ngủi, nhưng tình cảm Bác để lại luôn sâu đậm. Bác không về với tư cách của một lãnh tụ đứng trên cao, mà là người cha, người thầy, người bạn lớn, luôn lắng nghe, chia sẻ và thấu hiểu đời sống của nhân dân. Bác quan tâm đến việc học tập của học sinh, hỏi thăm từng bữa ăn của nông dân, dõi theo từng bước đi của công cuộc đổi mới nông nghiệp. Tình cảm ấy không chỉ thể hiện bằng lời nói mà còn bằng hành động cụ thể, bằng những chuyến đi trong mưa nắng, bằng ánh mắt ân cần và nụ cười hiền hậu. Nó là nguồn động viên to lớn đối với cán bộ và nhân dân nơi đây.
Tình yêu của Bác dành cho Phú Thọ cũng là tình yêu lớn lao Người dành cho nhân dân cả nước. Ở nơi đâu có nhân dân, thì ở đó có tình cảm và sự hiện diện của Bác – một tình cảm vượt thời gian, mãi mãi là di sản quý báu trong trái tim hàng triệu người con đất Việt.
LÊ VÂN