Đại tướng Lê Trọng Tấn – Nhà chiến lược quân sự có tầm nhìn xa trông rộng
QK2 – Đại tướng Lê Trọng Tấn – Nhà chiến lược quân sự có tầm nhìn xa trông rộng được thể hiện trước hết trong công tác tham mưu, tác chiến mà đồng chí đảm nhận. Từ năm 1961 đến năm 1978, đồng chí là Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam kiêm Tư lệnh của nhiều mặt trận; từ năm 1978 đến năm 1986, đồng chí là Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Đại tướng Lê Trọng Tấn đã góp phần quan trọng giúp Bộ Chính trị, Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương hoạch định kế hoạch quân sự trong kháng chiến và xây dựng đất nước. Chỉ tính riêng hai chiến dịch lớn có ý nghĩa quyết định thắng lợi trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam ở thế kỷ XX (Điện Biên Phủ và Hồ Chí Minh) đều in đậm dấu ấn của nhà tham mưu chiến lược tài giỏi Lê Trọng Tấn.

Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương họp quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Ảnh: Tư liệu
Mùa hè năm 1953, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Quốc phòng, đồng chí Lê Trọng Tấn và đồng chí Cao Văn Khánh được giao nhiệm vụ phụ trách tổ nghiên cứu chuyên đề “Tiến công tiêu diệt tập đoàn cứ điểm”. Trên cơ sở nghiên cứu những kinh nghiệm thành công và thất bại của bộ đội ta khi tiến công tập đoàn cứ điểm Nà Sản, dựa vào cách bố trí của địch ở thị xã Hòa Bình trong chiến dịch Hòa Bình, cùng với việc tham khảo kinh nghiệm của quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc và Hồng quân Liên Xô, tổ nghiên cứu đã biên soạn tài liệu tiến công tập đoàn cứ điểm. Trong tư duy của Đại đoàn trưởng Đại đoàn 312 Lê Trọng Tấn và Đại đoàn phó Đại đoàn 308 Cao Văn Khánh – Những con người chỉ huy tài giỏi của hai Đại đoàn chủ lực đầu tiên của Quân đội ta thì “Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ” không có gì là ghê gớm như quân đội Pháp tuyên truyền. Đồng chí Lê Trọng Tấn nhận xét: “Quá trình nghiên cứu, biên soạn, chúng tôi xem xét những chỗ mạnh, những chỗ yếu thực sự của tập đoàn cứ điểm, không lấy nguyện vọng chủ quan của mình thay cho hiện thực… Đặt vấn đề rồi lại tự trả lời, chúng tôi đã đi đến kết luận: trước hết, hình thức của tập đoàn cứ điểm không phải là một sản phẩm của trí tuệ. Sự xuất hiện tập đoàn cứ điểm có nguyên nhân của nó. Đó là sự trưởng thành về tác chiến của quân đội ta”. Đây là một kết luận rất quan trọng. Kết luận đó dựa trên cơ sở nghiên cứu đối tượng tác chiến trong tầm nhìn chiến lược về đánh giá tương quan so sánh lực lượng giữa ta và địch. Chuyên đề “Tiến công tiêu diệt tập đoàn cứ điểm” được Bộ Quốc phòng thảo luận làm tiền đề cho phương án tác chiến trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Đó là sự đóng góp to lớn của hai nhà tham mưu chiến lược cho chiến thắng Điện Biên Phủ “Lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu”, buộc thực dân Pháp phải ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Từ đầu năm 1973, sau khi ký Hiệp định Pari về Việt Nam, dưới sự chỉ đạo của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ Tổng Tham mưu thành lập Tổ Trung tâm để nghiên cứu kế hoạch quân sự giải phóng miền Nam. Tổ Trung tâm do đồng chí Lê Trọng Tấn, Phó Tổng Tham mưu trưởng làm Tổ trưởng và một số thành viên khác tham gia. Nhiều vấn đề về chiến lược được đặt ra và thảo luận tại Tổ, làm tiền đề để Bộ Quốc phòng dự thảo “Kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam”.

Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh bàn phương án tác chiến. Ảnh: Tư liệu
Tháng 7 năm 1974, tại Đồ Sơn (Hải Phòng), đồng chí Lê Duẩn, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã có cuộc làm việc riêng với hai Phó Tổng Tham mưu trưởng là đồng chí Hoàng Văn Thái và đồng chí Lê Trọng Tấn. Tại cuộc họp, đồng chí Lê Trọng Tấn, Tổ trưởng Tổ Trung tâm báo cáo với đồng chí Tổng Bí thư “Kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam” đã qua 8 lần dự thảo, lắng nghe nhiều ý kiến chỉ đạo, góp ý của các đồng chí trong Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương để bổ sung vào kế hoạch. Tại hội nghị Bộ Chính trị từ ngày 30/9 đến ngày 8/10/1974, các đồng chí trong Quân ủy Trung ương cùng dự. Đại tướng Lê Trọng Tấn báo cáo Đề án kế hoạch chiến lược hai năm và riêng năm 1975 với quyết tâm hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 – 1976. Sau hai ngày thảo luận, Bộ Chính trị thống nhất với kết luận của đồng chí Lê Duẩn: Quyết tâm của ta là động viên nỗ lực toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, mở cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa cuối cùng, đưa chiến tranh cách mạng phát triển đến mức cao nhất, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân ngụy, đánh chiếm Sài Gòn – sào huyệt trung tâm của địch cũng như tất cả các thành thị khác, đánh đổ ngụy quyền trung ương và các cấp, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Năm 1975, sau chiến thắng Phước Long, Bộ chính trị có cơ sở khẳng định quyết tâm chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975. Hội đồng khoa học quân sự Bộ Quốc phòng được thành lập do Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bí thư Quân ủy, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng làm Chủ tịch; Đại tướng Văn Tiến Dũng, Tổng Tham mưu trưởng làm Phó Chủ tịch thứ nhất; hai Phó Tổng Tham mưu trưởng là Thượng tướng Hoàng Văn Thái và đồng chí Lê Trọng Tấn làm Phó Chủ tịch Thường trực. Nhiệm vụ của Hội đồng là nghiên cứu và từng bước có kế hoạch rà soát từng chuyên đề của kế hoạch Tổng tiến công giải phóng miền Nam của Bộ Tổng Tham mưu đã dự thảo, trao đổi những vấn đề lớn về chiến dịch, kinh nghiệm về tiến công và nổi dậy, cũng như những vấn đề về lý luận quân sự, nghệ thuật quân sự đã được tổng kết.
Ngay sau Hội nghị Bộ Chính trị bàn về Kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam, ngày 09/01/1975, Thường trực Quân ủy Trung ương họp có sự tham gia của các đồng chí: Võ Chí Công, Chu Huy Mân, Lê Trọng Tấn và đồng chí Hoàng Minh Thảo, trọng tâm bàn về chiến dịch Tây Nguyên. Ngày 04/3/1975, chiến dịch Tây Nguyên bắt đầu nhưng ngay từ đầu tháng 2, đồng chí Lê Trọng Tấn đã đề nghị và được Quân ủy Trung ương đồng ý việc nghiên cứu kế hoạch tác chiến các bước tiếp theo chiến dịch Tây Nguyên là chiến dịch Huế – Đà Nẵng, Sài Gòn. Khi Tổng Tư lệnh hạ quyết tâm mở chiến dịch Huế – Đà Nẵng thì đồng chí được cử làm Tư lệnh chiến dịch và đồng chí đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Đà Nẵng được giải phóng ngày 29/3/1975. Ảnh: Tư liệu
Sau chiến thắng Huế – Đà Nẵng, đồng chí Lê Trọng Tấn cũng là người nêu ý kiến về việc thành lập cánh quân phía Đông theo quốc lộ 1 tiến vào Sài Gòn. Thực tiễn chứng minh đề nghị ấy là chuẩn xác, có tầm chiến lược. Đó là một hướng tiến công rất lợi hại trong chiến dịch mang tên Bác. Được sự đồng ý của đồng chí Lê Duẩn và Đại tướng Võ Nguyên Giáp, cánh quân phía Đông được thành lập và do đồng chí Lê Trọng Tấn làm chỉ huy đã thần tốc tiến vào sào huyệt cuối cùng của chính quyền Sài Gòn. Trong Hội nghị tổng kết cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp biểu dương: “Cánh quân phía Đông là sáng tạo của Bộ Tổng Tham mưu vì nó không có từ đầu trong kế hoạch giải phóng miền Nam”.
Từ những trải nghiệm sâu sắc thực tiễn chiến trường và trước những yêu cầu nhiệm vụ mới đặt ra, đồng chí Lê Trọng Tấn đã viết nhiều tác phẩm, luận văn quân sự có giá trị cùng hàng chục bài báo đăng trên các báo, tạp chí trong và ngoài nước. Tiêu biểu như: “Cuộc chiến Đông Xuân 1953 – 1954 – Một bước phát triển sáng tạo của nghệ thuật quân sự Việt Nam”; “Mấy vấn đề nghệ thuật quân sự trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975”; “Xây dựng mỗi huyện thành một pháo đài quân sự”; “Mấy vấn đề chỉ đạo và chỉ huy tác chiến”; “Mấy vấn đề cần nắm vững trong công tác chỉ đạo huấn luyện chiến đấu hiện nay”; “Quan điểm thực tiễn trong huấn luyên quân sự”; “Nâng cao trình độ tổ chức chỉ huy của cán bộ chỉ huy và cơ quan chỉ huy các binh đoàn”; “Dân quân tự vệ một lực lượng cách mạng to lớn”; “Mấy vấn đề công tác nhà trường quân sự”; “Toàn quân hành động theo điều lệnh, nâng cao trình độ chính quy của Quân đội ta”; “Về công tác khoa học quân sự hiện nay”… Các tác phẩm mà đồng chí Lê Trọng Tấn để lại thực sự là những công trình khoa học, tổng kết giàu tính thực tiễn và lý luận nhằm tham mưu cho Đảng, Nhà nước và Quân đội những vấn đề chiến lược về quân sự, quốc phòng nhưng cũng rất cụ thể. Nội dung chủ yếu tập trung vào các vấn đề: Xây dựng và thực hiện phương hướng, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, nhiệm vụ, quy chế, quy định của Nhà nước và Quân đội trên lĩnh vực quân sự, quốc phòng và chỉ đạo tổ chức thực hiện; hoạch định cơ chế, chính sách quân sự, quốc phòng ở tầm toàn quân và giải pháp, quy định, môi trường pháp lý cho các hoạt động quân sự; xây dựng để trên phê duyệt, ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực quân sự, quốc phòng, trong đó tập trung vào xác lập cơ chế quản lý điều hành, xác định trách nhiệm của các cấp, các ngành, các địa phương và đơn vị; xây dựng tổ chức, con người, nhất là công tác nhà trường, huấn luyện quân sự, xây dựng đội ngũ cán bộ quân sự, tham mưu của lực lượng vũ trang…

Nhân dân Sài Gòn đón chào Quân Giải phóng. Ảnh: Tư liệu
Đặc biệt, đồng chí Lê Trọng Tấn rất coi trọng và quan tâm đến việc xây dựng nền nghệ thuật quân sự Việt Nam và phát triển nghệ thuật quân sự, nhất là nghệ thuật chiến dịch tiến công, phản công, phòng ngự; về chỉ đạo tác chiến; về xây dựng huyện thành pháo đài và phát huy vai trò của dân quân, tự vệ; về nâng cao hiệu suất chiến đấu của bộ đội chủ lực và trình độ tổ chức chỉ huy của cán bộ chỉ huy, cơ quan chỉ huy các binh đoàn; về phương thức tác chiến hiệp đồng binh chủng trong chiến tranh giải phóng dân tộc; về huấn luyện chiến đấu trong những điều kiện mới của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa… Trong đó, đồng chí tập trung phân tích những nét nổi bật về chỉ đạo chiến lược và chiến dịch của Đảng ta, về hạ quyết tâm chiến lược, tổ chức và thực hành thắng lợi trận quyết chiến chiến lược; nêu lên quy luật phát triển về chiến thuật và cách đánh của Quân đội ta nhằm đánh bại những hình thức và biện pháp tác chiến cao nhất của địch để giành thắng lợi. Từ những vấn đề được đặt ra trong thực tiễn chiến đấu và đều được giải quyết thành công ngay trong thực tiễn sống động một cách sáng tạo theo đường lối, quan điểm của Đảng, đồng chí rút ra những bài học kinh nghiệm quý giá trong công tác huấn luyện, xây dựng Quân đội tiến lên chính quy, hiện đại. Đó cũng chính là những đóng góp quan trọng của đồng chí Lê Trọng Tấn trong công tác nghiên cứu, học tập của cán bộ các cấp cũng như đối với việc xây dựng, phát huy những đặc điểm độc đáo của nền nghệ thuật quân sự Việt Nam hiện nay và mai sau.
SƠN CA