Giá trị to lớn của độc lập, tự do
qk2 – Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã đi vào lịch sử dân tộc như một bản anh hùng ca vĩ đại, mở ra một thời kỳ lịch sử mới của dân tộc Việt Nam. Song, hằng năm, vào dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, các thế lực thù địch, phản động lại tăng cường các hoạt động chống phá cách mạng nước ta. Lợi dụng các trang mạng xã hội, chúng đăng tải các bài viết, hình ảnh với góc nhìn phiến diện, sai lệch nhằm tuyên truyền, xem nhẹ giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và Quốc khánh 2/9.

Khối quân nhạc trong Lễ kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ.
Như chúng ta đã biết để có bản Tuyên ngôn độc lập tuyên bố trước đồng bào quốc dân và nhân dân thế giới ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) dân tộc Việt Nam chúng ta đã phải dùng sức mạnh của mấy ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước để chiến đấu kiên cường suốt 87 năm kể từ khi liên quân Pháp – Tây Ban Nha nổ súng tấn công bán đảo Sơn Trà ngày 1/9/1858.
Trong gần một thế kỷ với ý chí quyết tâm chiến đấu chống thực dân Pháp để giữ và giành độc lập cho Tổ quốc, biết bao tính mạng người dân, cán bộ, chiến sĩ đã ngã xuống để cho dân tộc ta nở hoa, kết trái độc lập, tự do, hạnh phúc. Các phong trào đấu tranh cách mạng trong gần một thế kỷ là sự tiếp nối truyền thống anh dũng chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta, song do nhiều nguyên nhân, lần lượt thất bại. Như Bác Hồ đã nói: “Từ ngày bị đế quốc xâm chiếm, nước ta là một xứ thuộc địa, dân ta là vong quốc nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác. Trong mấy mươi năm khi chưa có Đảng, tình hình đen tối như không có đường ra”.
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, bản Tuyên ngôn độc lập được vang lên trước đông đảo đồng bào trong nước và người nước ngoài. Trong không khí mùa thu độc lập đầu tiên của đất nước, sông núi khắc ghi chân lý ngàn đời: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.
Những câu, chữ của Tuyên ngôn độc lập chứa đựng hồn non sông nước Việt ấy là sản phẩm quá trình phát triển của lịch sử dân tộc có tinh hoa văn minh nhân loại; là hơi thở, tâm hồn của Tổ quốc Việt Nam, bắt nguồn từ những hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh suốt 34 năm (1911 – 1945), đồng thời là kết quả 15 năm sáng tạo, lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chính vì vậy mà ngày 30/8/1945, sau khi đọc bản thảo cho những người cộng tác thân cận nghe và hỏi ý kiến họ, Bác Hồ đã không giấu nổi cảm xúc sung sướng: “Trong đời tôi, tôi đã viết nhiều, nhưng đến bây giờ mới viết được một bản Tuyên ngôn như vậy”. Sung sướng vì đây không chỉ là kết quả lao động tinh thần của Người mà chính là kết quả của những bản tuyên ngôn khác và tinh hoa của các nhà cách mạng tiền bối đi trước.
Tác giả Trần Dân Tiên trong tác phẩm “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” đã viết: Bản Tuyên ngôn độc lập chính “là hoa, là quả của bao nhiêu máu đã đổ và bao nhiêu tính mạng đã hy sinh của những người con anh dũng của Việt Nam trong nhà tù, trong trại tập trung, trong những hải đảo xa xôi, trên máy chém, trên chiến trường”; là “kết quả của bao nhiêu hy vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn 20 triệu nhân dân VN” lúc bấy giờ.
Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 là văn bản pháp lý đặt cơ sở cho việc khẳng định thiết lập Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, với mục tiêu Độc lập – Tự do – Hạnh phúc, khơi nguồn sáng tạo và soi sáng con đường cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Hơn thế nữa, Tuyên ngôn độc lập còn đóng góp cho sự nghiệp giải phóng nhân loại, là sự mở đầu kỷ nguyên độc lập, tự do của các dân tộc thuộc địa, bị áp bức trên toàn thế giới. Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện lịch sử, một văn bản pháp lý quan trọng bậc nhất của nước ta. Với hệ thống lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, giọng văn hùng hồn, một cơ sở pháp lý vững chắc khẳng định mạnh mẽ chủ quyền quốc gia của dân tộc Việt Nam trước toàn thế giới, mở ra thời kỳ mới của dân tộc ta trên con đường phát triển.
Trong thư gửi đồng bào Nam Bộ ngày 26/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục nêu rõ: “Đối với những người Pháp bị bắt trong lúc chiến tranh, ta phải canh phòng cẩn thận, nhưng phải đối đãi với họ cho khoan hồng. Phải làm cho thế giới, trước hết là làm cho dân Pháp biết rằng: Chúng ta là quang minh chính đại. Chúng ta chỉ đòi quyền độc lập tự do, chứ chúng ta không vì tư thù tư oán, làm cho thế giới biết rằng chúng ta là một dân tộc văn minh, văn minh hơn bọn đi giết người cướp nước”.
Tinh thần nhân đạo cao cả, đấu tranh vì lẽ phải, công bằng là một giá trị đặc trưng của truyền thống văn hóa, nhân văn Việt Nam. Giá trị đó được hình thành, phát triển và tỏa sáng trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Tinh thần nhân đạo, chính nghĩa, nhân văn là sức mạnh của văn hóa, sức mạnh nội sinh giúp cho dân tộc ta đấu tranh và chiến thắng các thế lực hiếu chiến xâm lược. Tuyên ngôn Độc lập được Bác Hồ tuyên đọc ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình vừa để cho nhân dân thế giới thấy rõ truyền thống văn hiến, văn minh của dân tộc Việt Nam, vừa là lời cảnh báo với thực dân Pháp và các thế lực xâm lược về tính chất chính nghĩa và sức mạnh văn hóa của nhân dân Việt Nam. Chính sức mạnh đó, đã quét sạch mọi thế lực xâm lược để bảo vệ vững chắc nền độc lập, tự do, bình đẳng của dân tộc Việt Nam.
NGỌC CƯỜNG