Phóng sự: HẠT THÓC VÀ CON NGƯỜI NƠI BỐN XÃ VÙNG BIÊN (KỲ 4)
Kỳ 4: MẶT TRỜI LÊN, LỜI CA RƠI XUỐNG
QK2 – Nông dân vùng xuôi phải cần sự chung lưng, đấu cật để tồn tại. Nông dân miền núi cũng thế nhưng họ có cái rất riêng, đó là hợp tác để có lúa vàng, lúa vàng kéo người gần nhau và đẩy lùi hủ tục.
Chuyện hạt thóc và con người nơi biên giới Sốp Cộp giờ đây cũng chỉ như mầm cây, nhưng nó sẽ cho hoa khi bộ đội còn hát bài ca sau núi…
NGHE TIẾNG TRỐNG GỌI NHAU XEM MÙA
Trước kia, mỗi lần về cụm 4 xã vùng biên, chúng tôi thường bắt gặp những cái nhìn vội vã của dân bản. Cũng vì đói nghèo mà nét mặt ai cũng đăm chiêu, tư lự. Người ta cứ lầm lũi một đời nhưng vẫn chưa tìm được câu trả lời cho chính đời mình, là tại sao, lúc nào dân bản ta cũng nghèo?
Chỉ có sau này bộ đội về rồi thì bà con đã mang máng nhận ra một phần nguyên nhân.
Giờ đây cứ mỗi ngày mới lại thấy những nét mặt mới hiện lên. Bà con ở các xã Mường Và, Nậm Lạnh, Mường Lạn và Mường Lèo vui vẻ, nhìn con suối róc rách rồi hướng lên cánh rừng đang thổn thức lá khua. Nơi ấy, mấy năm trước là đồi cao, núi trọc, khô khốc. Còn hôm nay nó là màu xanh bất tận, trước màu xanh ấy ai cũng nghĩ điều tốt đẹp cho nhau, nhớ về bộ đội từ ngày đầu tiên các anh đặt chiếc ba lô xuống mảnh đất giáp biên rồi cùng ăn củ sắn, cùng đắp cái chăn tả tơi. Ngày ấy đến hôm nay chưa lâu lắm, nhưng đủ để làm cho người lính già đi khi các anh ngày đêm phải suy nghĩ, tìm cách giúp bà con thoát nghèo.
Cũng có người lại thích được nhìn vào những cánh đồng lúa đương thì con gái, non xanh mơn mởn, nghe tiếng kĩu kịt trên đôi vai trần trắc nịch để ngẫm lại thời gian mình và bộ đội đã đổ mồ hôi, công sức xuống bao la đất trống; để tạo nên những thửa ruộng bậc thang lưng chừng núi như những đám mây lơ lửng giữa sừng trời.
Nếu như ngày ấy và hôm nay không có dấu chân bộ đội, không có bàn tay của các anh thì cụm đất 4 xã giáp biên ngày nào vẫn nằm im dưới nhiều tầng cỏ dại mà không bao giờ có một hồi trống cất lên.
Ngày cái trống được treo ở đầu bản Nà Vèn và các bản khác, Đại tá Chu Ngọc Khanh, Đoàn trưởng Đoàn 326 đã gõ những tiếng đầu tiên để gọi bà con trong các cuộc vui.
Bây giờ ở Nà Vèn, Huổi Pá hay Phiêng Ban rất hay. Cái hay là trong cụm 4 xã giáp biên, mỗi tháng bộ đội đánh trống một lần. Nghe tiếng trống, dân bản chạy ra. Nếu ngày mùa thì tự biết bảo nhau thu hoạch, giúp nhau đưa lúa, đưa ngô về nhà. Sau mỗi công việc như thế, người Kinh, Thái, Mông, Khơ Mú lại ngồi với nhau và ngân lên câu hát được mùa.
CÒN LẠI LỜI CA TRÊN NÚI
Vậy là đã hơn 10 năm cán bộ, chiến sỹ Đoàn 326 đứng chân trên mảnh đất Sốp Cộp. Vùng đất ấy nơi nào cũng đầy khó khăn, gian khổ. Nhưng vất vả hơn vẫn là cụm xã vùng biên do các tổ, đội quản lý và phụ trách. Quay lại 10 năm mới thấy sự nhọc nhằn. Ngày ấy, nhiều bản, nhiều xã chưa có đường đi, tìm cả ngày cũng khó gặp đứa bé cắp sách tới trường, bản làng chìm trong đêm tối. Mà kể cả đến hôm nay, cuộc sống đã thay đổi nhiều rồi, vậy mà trong 23 bản của 4 xã giáp biên vẫn còn nhiều bản, nhiều điểm dân cư chưa có điện lưới quốc gia vì đó là các bản vừa mới được bộ đội và chính quyền địa phương vận động thành công bà con sống rải rác, lưa thưa trên các sườn núi về sống tập trung. Hôm nay chưa có điện, ngày mai sẽ có điện. Thành công lớn hơn điều ấy là mọi người đã tự tìm đến nhau, lao động sản xuất, cùng bổ những nhát cuốc vào đất hoang, cùng uống chung nguồn một con suối, bất kể là dân tộc nào.
Người miền núi 4 xã Mường Và, Mường Lạn, Mường Lèo và Nậm Lạnh đã quen với làm nông nghiệp. Đặc thù riêng biệt đã khiến họ găn bó chặt chẽ với nhau hơn. Nếu sau này dự án chăn thả gia súc tập trung trong khu thung lũng thành công, thì dần dần đồng bào dân tộc ở đây sẽ biết hết tiếng của nhau, hiểu về phong tục, tập quán, tâm tư tình cảm… Khi ấy bản làng sẽ ngập tràn trong sự đoàn kết, yêu thương, gắn bó.
Ngày ngày, nghe từng giọt mồ hôi thấm vào lòng đất, xem những bàn chân chắc nịch của bộ đội trên khắp các bản làng đã có rất nhiều ánh mắt biết ơn nhìn theo. “Ngày bộ đội chưa về, nhà nào cũng đói, bây giờ bộ đội về rồi thì gạo tẻ ăn no, lúa nếp vẫn còn trên sàn bếp đấy”.
Được ăn một miếng no, được đắp một chiếc chăn ấm, những con người ở giáp vành đai biên giới xưa kia chưa bao giờ biết ra khỏi bản thì hôm nay đã biết hát bài ca trên núi. Bài ca không có nhạc, không có vần. Bài ca là những lời truyền tai nhau về sự biết ơn của dân bản các xã vùng biên đối với bộ đội. Đã từ nhiều năm, nhiều đời nay, chỉ có bộ đội về với dân bản, cùng ăn đói, mặc rét, chia sẻ sự nhọc nhằn, đồng cảm trước nỗi khổ của những con người chưa biết đến sự no ấm là gì.
Mới có hơn 10 năm từ sau khi Đoàn 326 về mà sự đổi thay trên vùng đất khó đã hiển hiện rõ nét. Từ không có điện, nhiều nhà đã mua máy xay sát. Bản mà con trâu, con ngựa vào rừng ăn cỏ không tìm được lối về thì hôm nay đã thay bằng những con đường dân sinh phơi đầy lúa đầy ngô.
Sau mỗi mùa gặt, cùng với lễ hội Nào Sồng (Cầu mùa) của đồng bào dân tộc Mông với mong ước một năm mưa thuận, gió hoà, mùa màng bội thu thì người Thái lại hát lên khúc ca cây lúa: Tưới cho cây lúa mọc/ Cho cây lúa nẩy mầm/ Cho hạt chắc bông dài/ Gốc lúa bằng gốc lau/ Bông lúa dài bằng quả núc nác. Bà con dân tộc Lào ở Mường Và thì vui trong lễ hội “Xên mường”: Then trên trời phù hộ/ Cho tốt đẹp cả bản/ An khang cả mường/ Làm nương thành nương lúa bông dầy/ Làm ruộng thành ruộng tốt bông to/ Thuận lợi khi làm đòng/ Gặp may khi lúa trổ/ Mưa phùn khi ra bông/ Lúa mảy hạt gặp nắng/ Gánh về đổ bồ to đầy ắp/ Gánh về đổ bồ mường bồ bản đầy ngọn.
Trong những lễ hội ấy, chưa bao giờ thiếu màu xanh áo lính và nó còn mãi mãi ngân vang…
Bài, ảnh: CHÂU LINH – HOÀNG NGHIỆP