Thứ hai Ngày 18 Tháng 08 Năm 2025, 04:35:27

Phóng sự: HẠT THÓC VÀ CON NGƯỜI NƠI BỐN XÃ VÙNG BIÊN (KỲ 1)

Ngày đăng: 10/05/2016

QK2 – Đoàn Kinh tế – Quốc phòng 326 thuộc Bộ CHQS tỉnh Sơn La đứng trên ở vùng đất khó khăn nhất của hai huyện Sốp Cộp và Sông Mã. Từ những ngày đầu đặt chân đến, cán bộ, chiến sỹ đã cùng cấp ủy, chính quyền và nhân dân địa phương khảo sát địa bàn, giúp người dân vượt lên trở ngại, dần ổn định cuộc sống. Sau nhiều năm lăn lộn với bà con, cán bộ chiến sỹ nhận ra rằng: Nếu kéo nước về thì sẽ gọi được dân xuống, hợp lại thành bản, hợp tác với nhau để chế ngự bãi hoang. Khi ấy, chỉ cần một hồi trống thôi, những người sống ở vùng đất giáp biên “Và – Lạn – Lèo – Lạnh” sẽ tự gọi nhau…

Kỳ 1: GIỌT MỒ HÔI RƠI SAU VÁCH ĐÁ

Một thời gian dài, 4 xã vùng biên giới là Mường Và, hay các xã Mường Lạn, Mường Lèo, Nậm Lạnh của huyện Sốp Cộp (Sơn La) cũng chung cảnh đói nghèo như nhau. Khoảng 70% đồng bào dân tộc thiểu số đốt nương làm rẫy. Vì vậy, mạch nước ngầm trên Huẩy Pó của Púng Pảng cứ cạn dần mỗi khi có thêm một đống lửa to tướng trên nương được đốt lên.

Những tên đất Pá Vai, Phá Thoóng hay Huổi Niếng chỉ còn lại tiếng răng rắc của đất khô. “Khôn” như trưởng bản Sộng A Sênh cũng chỉ biết nhìn lên trời rồi nhắm mắt lại mà chưa biết phải làm gì để cứu bản mình thoát khỏi cùng cực…

 CUỘC SỐNG TRÊN CAO…

Rất nhiều lần các trưởng bản Hạng A Chống ở Phá Thoóng, Lậu Bả Cấu ở Pá Vai, Lậu A Nếnh ở Púm Pảng và sau này là Quàng Văn Hồng ở Nà Vèn đã ngồi với nhau để tìm cách giúp đồng bào Mông, Thái, Lào… đưa hạt lúa từ trên núi xuống vùng đất thấp bị bỏ hoang.

Làm được như thế thì bà con không phải mất công đi nửa ngày mới tới nương, khi mùa đến cũng chẳng phải nhìn cảnh từng đàn chim rừng đến ăn và làm rơi rớt những hạt lúa vàng. Và cái được lớn nhất là người ta có thời gian ngồi với nhau để kể chuyện từ thời cha ông khó khăn là vậy nhưng đã biết đoàn kết, bắt tay khai phá vùng đất này, vậy mà sao thế hệ con cháu vẫn chưa tìm được cách thoát nghèo?

Trưởng bản Hạng A Chống đã nhiều lần nói với người Mông mình rằng: “Người Mông ở trên núi lâu rồi, bây giờ phải xuống núi. Xuống núi ở với người Thái, người Lào, người Khơ Mú. Xuống thấp thì văn minh sẽ lên cao, còn lên cao thì lạc hậu phủ kín từ chân đến đầu”. Trong các đời trưởng bản trước, chắc có mình Hạng A Chống nói hay, vậy mà ông cũng chỉ thấy những cái lắc đầu cùng tiếng cười ngây dại lẫn trong thâm u của núi rừng.

Cuộc sống của bà con Sốp Cộp trước kia còn nghèo đói.

Cuộc sống của bà con Sốp Cộp trước kia còn nghèo đói.

Suy nghĩ của trưởng bản đúng là giá trị. Giá trị ở chỗ, nếu như đồng bào Mông ở Phá Thoóng mà bảo nhau bỏ đốt nương làm rẫy, xuống vùng thấp như Nà Vèn, Huổi Niếng cùng với người Thái, người Lào, đắp suối, ngăn nước, cấy lúa thì sẽ no hơn. Khi ấy chắc chắn các bản người Mông khác cũng xuống theo. Vậy là cả cái thung lũng rộng lớn Nà Vèn sẽ có 3- 4 dân tộc thiểu số cùng sinh sống, cùng uống chung một dòng nước, cùng đi chung một con đường, dân tộc này sẽ nói được tiếng của dân tộc kia. Được như vậy thì có khác nào anh em một nhà đâu? Tốt quá, tốt quá còn gì.

Trưởng bản cũng chỉ dám nghĩ đến thế mà không biết phải làm thế nào để bà con nghe theo cái nghĩ của mình. Đúng là khó, khó thật. Người Mông vốn có phong tục, tập quán sống trên núi cao hàng mấy trăm năm nay rồi. Ngô á? Phát tí nương, đốt tí rẫy rồi trọc lỗ, thả hạt là xong. Còn lúa à? Lo gì, vẫn đất ấy, xả xuống thành những thang ruộng rồi cấy lên, một năm được một vụ, vụ sau đất bạc màu lại đi vùng khác, đi hết một đời, có khi con cháu lại quay về đúng nơi đầu tiên bố mẹ chúng “chặt rừng” tra bắp, trồng lúa.

Những đời trưởng bản sau không thể đếm được trước mình có bao nhiêu đời trưởng bản đã già? Nhưng các anh nhớ chính xác từng giọt mồ hôi của dân mình, bản mình rơi rớt trên núi. Vùng thấp thì đồng bào Kinh, Tày, Thái… nếu mồ hôi xuống, cây sẽ mọc lên. Còn trên núi cao thì mồ hôi đổ xuống bao nhiêu, rừng cây bị chặt phá, đất đai bị xói mòn, nguồn nước cạn kiệt bấy nhiêu.

Đấy là những giọt mồ hôi đã trở thành sợi dây xâu chuỗi ngày cùng cực này với ngày cùng cực khác, đời đói này, đến đời đói khác. Liệu một ngày còn không những sợi dây, để xâu đủ những cái đói nghèo, lạc hậu như thế? Người trên cao đốt nương, phá hỏng cả mạch nước ngầm. Người dưới thung lũng chiều chiều chỉ còn biết cầm cây lúa khô ngồi giữa dòng suối cạn Nặm Sủ từ bản Tặc Tè chảy xuống mà khóc. Điều đó chắc chắn sẽ xảy ra nếu như một ngày rừng ở Nà Vèn, Mường Và hay Nậm Lạnh không còn và thực tế bản Huổi Niếng có thời kỳ giọt nước sạch cũng hiếm.

…VÀ CHUYỆN NGƯỜI DƯỚI THẤP

Vậy là cả vùng thung lũng rộng lớn dưới Mường Và và một số nơi khác, lẽ ra sẽ cho những cánh đồng vàng óng, lúa cong vai trên những con đường về bản thì chỉ 30% diện tích có nước để bà con trồng cấy một vụ. Lâu lắm mới có vụ thứ hai trong năm nhưng nhiều người bảo, vụ ấy chỉ lấy gốc cho trâu bò nhai thay cỏ. Phải làm sao để người trên cao xuống ở cùng người dưới thấp, để hai phần ba diện tích đất còn lại dưới thung lũng phủ kín hoa màu mà rừng thì không phải đốt thêm, bậc thang ruộng cũng không phải phơi hoang?

Đã có nhiều người cùng chung nhau một suy nghĩ như thế!

Người trên cao sống khổ thì cuộc sống của người dưới thấp cũng gian truân, Trưởng bản Quàng Văn Hồng đã nói như thế rất nhiều lần đối với đồng bào dân tộc Thái – Lào ở bản Nà Vèn mỗi khi đến vận động bà con hãy đưa trâu bò ra xa nhà để chăn thả. Làm được như thế chúng sẽ sinh sản nhiều hơn, con người không phải ở chung với gia súc, gia cầm, bệnh tật cũng sẽ hết.

Bộ đội Đoàn 326 giúp dẫn khắc phục hậu quả thiên tai.

Bộ đội Đoàn 326 giúp dân khắc phục hậu quả thiên tai.

“Đúng, đúng quá trưởng bản Hồng ạ. Nhưng khó đấy, khó lắm đấy. Vì có đưa trâu bò ra xa cũng làm gì có cỏ mà ăn, đất khô thế kia, mùa đông đến thì kể cả 2 con suối Nặm Ca và Nặm Sủ cũng không đủ nước cho đàn gia súc tắm và uống đâu. Mình cứ để trâu bò dưới gầm sàn thôi, nó ăn ở nhà có khác gì ra ngoài bãi, ra đấy lại mất công người đi tìm cả đêm trưởng bản ạ”.

Bà con nói thế thì còn có ai nói lại được nữa không?

Nói lại được thì cũng khó thực hiện. Nếu như đồng bào các dân tộc Thái, Mông, Tày mà về ở tập trung một điểm thì sẽ dễ. Lúc đấy hoa màu, lúa ngô đầy bãi. Hết đất hoang, không có cỏ thì cũng sẽ có gốc rơm rạ, cây ngô cho trâu bò ăn, thậm chí chúng còn được uống bột ngô, lúa xay như người Kinh dưới xuôi vẫn làm, vậy thì tốt quá. Bà con ở Nà Vèn cũng đã bao năm ao ước  và nhận ra rằng, Mường Và bé thôi, chỉ bằng bàn tay của một cánh rừng là cùng, vậy mà dân bản không nghĩ ra cách để kéo nhau về đây sinh sống.

Nà Vèn là bản khá thuận tiện, dễ dàng đi lại, khí hậu trong lành, đặc biệt là thung lũng bao la, nếu không để đất hoang thì cũng không bao giờ phải chịu cảnh đói triền miên. Nhưng chưa ai làm thế, bao nhiêu giọt mồ hôi khác của đồng bào lại rơi xuống, lại nghĩ và vẫn làm lại như bao đời người ta vẫn làm.

Các trưởng bản ngồi với nhau và đã kể về những năm trước như vậy.

Thế mới biết, đối với người nông dân, cũng cần phải có ý chí, phải biết hợp nhau lại để cái gì cũng gồng gánh, hỗ trợ cho nhau. Đồng bào vùng cao lại càng cần hơn… Đấy là câu nói của Trung tá Nguyễn Văn Toan, Đội trưởng Đội Sản xuất – Xây dựng cơ sở chính trị số 2 Nà Vèn với chúng tôi khi sau này Mường Và, Mường Lạn, Mường Lèo, Nậm Lạnh đã khác.

 

Những khó khăn, trở ngại đó được những người lính của Đoàn KT-QP 326 hóa giải một cách hiệu quả thông qua việc các anh vận động thành công bà con không đốt, phá rừng làm nương.

 Ngay sau đó là các thửa ruộng bậc thang mọc lên, những con đường như những cánh tay của rừng ôm gọn niềm vui của đồng bào. Tất cả nội dung ấy được chúng tôi nêu bật trong kỳ 2 của loạt bài này với tiêu đề: “Chân quen đi bước lạ”.

Bài, ảnh: CHÂU LINH – HOÀNG NGHIỆP

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *